Mở đầu: Kiểu thở giới hạn thể tích ở trẻ sơ sinh với nhiều
ưu điểm như hạn chế tổn thương phổi, ổn định PaCO2 để tránh tổn
thương não và đã được ứng dụng tại nhiều nơi trên thế giới nhưng chưa được áp dụng
tại Việt Nam.
Mục tiêu: Mô tả kết quả điều trị của
kiểu thở kiểm soát/ hỗ trợ áp lực
giới hạn thể tích (A/C VC+
mode) trên trẻ sơ sinh
non tháng bệnh màng trong, tại Khoa Hồi sức sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng 2.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca với cáctrẻ sinh non cóbệnh màng trong, đã được
đặt nội khí quản, thở máy kiểu
A/C VC+.
Kết quả: Tỉ lệ thở máy thành công là 76,9%, 6 trường hợp
thất bại là do độ giãn nở của phổi không cải thiện sau bơm Surfactant hoặc do
xuất huyết phổi, không có trường hợp nào tử vong, có các biến chứng viêm phổi
(40%), loạn sản phế quản phổi (20%), ống động mạch ảnh hưởng huyết động (20%),
không có trường hợp nào bị xuất huyết trong não thất nặng, nhuyễn não chất trắng
quanh não thất nặng hay bệnh lý võng mạc trẻ non tháng.
Kết luận: Nên ứng dụng kiểu thở giới hạn thể tích cho trẻ
sơ sinh non tháng sau bơm Surfactant với máy thở phù hợp.
Từ khoá: Thở máy giới hạn thể tích, non tháng, bệnh màng
trong.