Untitled Document
Đăng nhập
Username:
Password:

Số lượt truy cập

Đang có 1 người xem.

Search in TCYH

Keywords    

TÌM KIẾM NÂNG CAO          
  Tác giả :
Nhan đề :
Tóm tắt :
Title :
Abstract :
Từ năm :    đến :

* Năm 2010 - Tập 14 - Số 1
PHẪU THUẬT NỘI SOI SAU PHÚC MẠC CẮT THẬN BÁN PHẦN TRONG BƯỚU THẬN: GIẢI PHÁP HÀI HÒA TRONG UNG THƯ HỌC

Trần Ngọc Sinh(1,2), Châu Quý Thuận(2), Dương Quang Vũ(2), Trần Trọng Trí(2), Đỗ Quang Minh(2), Nguyễn Thị Thái Hà(2), Phó Minh Tín(2)

TÓM TẮT :

Mục tiêu:Trình bày kinh nghiệm bước đầu áp dụng phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận bán phần: Một giải pháp hài hòa cho cả bướu lành và bướu ác, đồng thời đánh giá kết quả bước đầu, độ an toàn, tính khả thi khi thực hiện kỹ thuật này điều trị bướu chủ mô thận tại Khoa-Bộ môn Tiết niệu bệnh viện Chợ Rẫy.
Tư liệu và phương pháp: Chúng tôi có 18 trường hợp (TH) được chẩn đoán bướu chủ mô thận dựa trên siêu âm, CT-Scan, kích thước bướu  4cm, bướu trung tâm gần rốn thận 4 TH và 14 TH bướu ngoại biên. Được chỉ định mổ nội soi sau phúc mạc cắt thận bán phần. Chúng tôi tiếp cận khoang sau phúc mạc với 3 hoặc 4 trocar (2x10mm và 1x5mm hoặc 3x10mm và 1x5mm), kiểm soát động mạch thận bằng một vòng chỉ Chromic 1.0 cơ động (Tourement) trong 2 TH đầu, sau đó sử dụng lacet mạch máu 14 TH và 2 TH gần đây có sử dụng kẹp Satinsky, không thắt hoặc thắt cách quảng nếu có chảy máu mặt cắt khi bướu ở 2 cực thận, khâu chủ động 2 nơ chỉ cách bờ bướu 2cm, thắt liên tục nếu bướu ở trung tâm hay vị trí khác. Kẹp mạch máu liên tục với Satinsky clamp, yêu cầu giải phẫu bệnh trả lời giáp biên bướu. Theo dõi đánh giá kết quả ngay sau khi mổ và rút kinh nghiệm để hoàn thiện kỹ thuật mổ.
Kết quả: Thời gian mổ 120 đến 190 phút, thời gian thiếu máu nóng cách quảng trong 2 trường hợp đầu không quá 5 phút, 16 TH sau thiếu máu nóng 15- 20 phút, lượng máu mất khoảng 50-100ml, không có trường hợp nào cần truyền máu trong lúc mổ, không có biến chứng nào ghi nhận trong và sau mổ, thời gian nằm viện ngắn 4-5 ngày, diễn biến hậu phẫu thuận lợi (thông tiểu rút N2, ống dẫn lưu rút N4) và bệnh nhân hồi phục nhanh chóng. Kết quả giải phẫu bệnh lý 13 trường hợp là Angiomyolipoma (AML), 5 TH là Renal cell carcinoma (RCC), giáp biên bướu âm tính trong tất cả các trường hợp.
Kết luận: Kết quả bước đầu là thuận lợi, đáng khích lệ, khả thi trong chỉ định điều trị những trường hợp bướu thận kích thước nhỏ hơn 4 cm kể cả bướu ở trung tâm gần rốn thận. Một giải pháp hài hòa cho cả bướu lành và bướu ác được chọn lựa trong chiến lược điều trị bướu thận hiện nay.

ABSTRACT :

Objectives: Herein we would like to introduce our technique with underequipped condition in Viet Nam and initially assess the results and feasibility of the technique at Cho Ray hospital.
Materials and methods: We present 18 cases of renal tumor, less than 4 cm in size (Ultrasound, CT-Scan), operated on partial nephrectomy by flank retroperitoneal laparoscopy. The initial retroperitoneal space made by condom, inflated with air. Three or four trocars were used. Renal arteries controlled with surgical thread (chromic 1.0)- touremet in 2 cases, used lacet for 14 cases and Satinsky clamp for 2 cases. Frozen section biopsy made in one case.
Results: The operative times was 120 and 190 minutes. The intermittent warm ischemic time (WIT) was 5minutes in 2 case and continous WIT from 15 to 20 minutes in after 16 cases. The blood loss was not considerable, 50-100ml, no blood transfusion. No intraoperative and postoperative complications occurred; Drain removal after 4 days; Hospital stay was 5 days. Pathology of tumors revealed angiomyolipoma (AML) in thirteen cases and renal cell carcinoma in five cases. Margin free in our cases.
Conclusions: Laparoscopic partial nephrectomy offers many advantages, including surgery that is both nephron sparing and minimally invasive. Our technique of retroperitoneal laparoscopic partial nephrectomy is safely realizable with small renal tumors (less than 4cm) and located in the kidney

Toàn văn HTML |  Toàn văn PDF